Xưa nay, “rượu và tri kỷ” thường đi kèm với nhau. Tri kỷ là người hiểu mình đến tận đáy lòng, còn rượu là thứ giúp dốc bầu tâm sự, để lời thật lòng trôi theo men cay nồng. Một chén là vui, hai chén là thấm, ba chén là quên hết thế sự. Cũng vì thế, những bài thơ về rượu và tri kỷ luôn thu hút người đọc, người cảm. Sau đây, Rượu Tốt xin gửi đến bạn đọc 10 Bài Thơ Về Rượu Và Tri Kỷ Của Tản Đà hay nhất!
Đôi nét về tác giả của những bài thơ về rượu và tri kỷ hay
Tản Đà (chữ Hán: 傘沱) sinh năm 1889 và mất năm 1939. Tên thật của ông là Nguyễn Khắc Hiếu, là một nhà thơ, nhà văn và nhà viết kịch nổi tiếng của Việt Nam. Bút danh Tản Đà là tên ghép giữa núi Tản Viên và sông Đà, quê hương ông.
Để miêu tả về phong cách thơ Tản Đà, người ta đã dành ra những lời ca ngợi như: Lãng mạn, bay bổng, vừa phóng khoáng, ngông nghênh, vừa cảm thương ưu ái. Thơ Tản Đà thường làm theo thể cổ phong, Đường luật, đọc lên có thể thấy rõ âm hưởng dân gian trong từng câu chữ, vần nhịp. Mặc dù trong thời kỳ của phong trào Thơ mới, chất thơ này dần trở nên cô độc, song di sản của ông vẫn nhận về sự công nhận của các lớp người sau.
Khi Tản Đà mất, làng văn nghệ trong nước vừa yên ắng sau vụ "thơ mới - cũ" lại trở nên xôn xao. Một loạt các bài báo tưởng niệm Tản Đà được ra mắt ngay sau đó: Khái Hưng có "Cái duyên của Tản Đà", Xuân Diệu có "Công của thi sĩ Tản Đà", Lưu Trọng Lư có "Bây giờ, khi nắp quan tài đã đậy lại"... Thậm chí, Trương Tửu ngay sau khi Tản Đà mất, cho ra một cuốn sách viết về Tản Đà là "Uống rượu với Tản Đà"...
Tàn Đả nổi tiếng là một người nghiện rượu, lúc say thì hay nói luyên thuyên (trích Tờ Phong hóa của Tự Lực văn đoàn). Ấy vậy, những bài thơ về rượu và tri kỷ của ông lúc nào cũng khiến nhiều người phải trầm trồ khen ngợi. Sau đây, hãy cùng Rượu Tốt điểm qua 10 bài thơ về rượu và tri kỷ cực hay của nhà thơ quê Hà Tây này.
Xem thêm rượu Trung Quốc nổi tiếng hợp vừa nhấm nháp vừa ngâm thơ.
Top 10 Bài Thơ Về Rượu Và Tri Kỷ
Người yêu rượu mới thấm, “thơ, rượu và tri kỷ” tạo thành ngày Xuân. Xuân - không chỉ là mùa xuân, mà còn là niềm vui và hân hoan phơi phới. Được làm điều mình thích, đắm trong men rượu cay, bên tri kỷ đối ẩm, đối tình - còn gì có thể khiến ta cảm thấy tuyệt vời hơn!
1. Ngày xuân thơ rượu

Trời đất sinh ta rượu với thơ
Không thơ không rượu sống như thừa
Công danh hai chữ mùi men nhạt
Sự nghiệp trăm năm nét mực mờ
Mạch nước sông Đà tim róc rách
Ngàn mây non Tản mắt lơ mơ
Còn thơ còn rượu còn xuân mãi
Còn mãi xuân còn rượu với thơ.
2. Nhớ bạn
Vừng giăng thơ thẩn khéo trêu ngươi!
Trông thấy giăng mà nhớ lại ai
Nhớ lúc rượu ngon răm bảy chén
Nhớ khi đêm vắng một đôi người
Nhớ sân đứng tế người thiên cổ
Nhớ chỗ nằm xem truyện “Liễu chai”
Muốn nhắn hỏi thăm ai nhắn hộ?
Chùa Tiên, sông Hát những ai chơi?
3. Đêm suông Phủ Vĩnh
Đêm xuông vô số cái xuông xuồng
Xuông rượu, xuông tình, bạn cũng xuông!
Một bức màn con coi ngán nỗi
Một câu đối mảnh nghĩ dơ tuồng!
Một vừng giăng khuất đi mà đứng
Một lá mành treo quấn lại buông
Ngồi hết đêm xuông, xuông chẳng hết!
Chùa ai xa điểm mấy hồi chuông
4. Thơ rượu
Đời người như giấc chiêm bao
Nghĩ xưa đã mấy ai nào trăm năm
Một đoàn lao lực, lao tâm
Quí chi chữ “thọ” mà lăm sống nhiều!
Có tiền chưa dễ mà tiêu
Ham danh lắm kẻ như diều đứt dây
Thương ai cho bận lòng đây
Cho vơi hũ rượu, cho đầy túi thơ
Cảnh đời gió gió, mưa mưa
Buồn trông, ta phải say sưa đỡ buồn
Rượu say, thơ lại khơi nguồn
Nên thơ rượu cũng thêm ngon giọng tình
Rượu, thơ, mình lại với mình
Khi vui quên cả cái hình phù du
Trăm năm thơ túi, rượu vò
Nghìn năm thi sĩ, tửu đồ là ai?
5. Chưa say
Mưỡu:
Đêm xuân hoa những ngậm cười,
Dưới đèn tươi tỉnh mặt người như hoa.
Khi vui vui lấy kẻo già,
Cơn men dốc cả giang hà chưa say.

Nói:
Kim tịch thị hà tịch?
Bóng giăng thanh tịch mịch xế ngang mành.
Lúc vui chơi cuộc rượu chửa tàn canh,
Riêng nỡ cất chén tình toan hắt bỏ.
Thánh hiền thân hậu do thiên cổ,
Phong nguyệt thành trung thả nhất tiêu.
Trót yêu hoa xin hãy gượng mà yêu,
Ngồi hết nợ phong liu rồi sẽ tếch.
Gửi bốn lạy: lạy bút, lạy nghiên, lạy đèn, lạy sách,
Quá thương ai đàn phách nốt đêm nay.
Nhân sinh ba vạn sáu nghìn ngày,
Coi những tỉnh, lúc say nào có mấy.
Được lúc gần say, say hẳn lấy,
Say thời say, say vậy dễ mà điên.
Tửu trung tự hữu thánh hiền.
6. Say
Mưỡu:
Đêm xuân một trận nô cười
Dưới đèn chẳng biết rằng người hay hoa
Khi vui quên cả cái già
Khi say chẳng dốc giang hà cũng say
Nói:
Kim tịch thị hà tịch?
Mảnh gương nga đã tếch lối non đoài.
Đó kìa ai ba, bốn, bốn, năm người,
Người đâu tá? còn chơi trong mộng thế.
Nhãn ngoại trần ai không nhất thế,
Hung trung khối luỹ thuộc tiền sinh.
Kiếp say sưa đã chấm sổ thiên đình,
Càng đắm sắc, mê thinh, càng mải miết.
Say lắm vẻ: say mệt, say mê, say nhừ, say tít,
Trong làng say, ai biết nhất ai say.
Mảnh hình hài quen giả trá xưa nay,
Chúng sinh tướng lúc này coi mới hiện.
Thôi sếp cả nguyệt hoa hoa nguyệt,
Cảnh bồng lai trải biết gọi làm duyên.
Tửu trung ưng thị thần tiên.
7. Lại say
Mưỡu:
Say sưa nghĩ cũng hư đời!
Hư thời hư vậy, say thời cứ say!
Đất say, đất cũng lăn quay,
Giời say, mặt cũng đỏ gay, ai cười.
Nói:
Say chẳng biết phen nầy là mấy!
Nhìn non xanh chẳng thấy, lại là say.
Quái say sao say mãi thế nầy?
Say suốt cả đêm ngày như bất tỉnh.
Thê ngôn tuý tửu chân vô ích,
Ngã dục tiêu sầu thả tự do.
Việc trần ai ai tỉnh ai lo,
Say tuý lý bất lo mà bất kể.
Giời đất nhỉ, cái say là sướng thế!
Vợ can chồng, ai dễ đã chừa ngay.
Muốn say, lại cứ mà say!
8. Gặp Xuân
Mưỡu:
Gặp xuân ta giữ xuân chơi,
Câu thơ chén rượu là nơi đi về.
Hết xuân, cạn chén, xuân về,
Nghìn thu nét mực xuân đề vẫn xuân!

Nói:
Xuân ơi xuân hỡi!
Vắng xuân lâu ta vẫn đợi, chờ, mong.
Trải bao nhiêu ngày tháng hạ, thu, đông,
Ròng rã nỗi nhớ nhung, xuân có biết?
Khứ tuế xuân quy, sầu cửu biệt,
Kim niên xuân đáo, khánh tương phùng.
Gặp ta nay xuân chớ lạ lùng,
Tóc có khác, trong lòng ta chẳng khác.
Kể từ thuở biết xuân bốn chín năm về trước,
Vẫn rượu thơ non nước thú làm vui.
Đến xuân nay ta tuổi đã năm mươi,
Tính trăm tuổi, đời người ta có nửa.
Còn sau nữa lại bao nhiêu xuân nữa,
Mặc trời cho, ta chửa hỏi làm chi.
Sẵn rượu đào xuân uống với ta đi,
Chỗ quen biết kể gì ai chủ khách.
Thiên cổ vị văn song Lý Bạch,
Nhất niên hà đắc lưỡng Đông quân.
Dẫu trăm năm gặp gỡ đủ trăm lần,
Thơ với rượu cùng xuân, ta cứ thế.
Ngoài trăm tuổi, vắng ta trần thế,
Xuân nhớ ta chưa dễ biết đâu tìm!
Cùng nhau nay hãy uống thêm!
9. Nhớ ông bạn ở phố Mã Mây, Hà Nội
Ông Ngô Bằng Giực, cũng biết làm thơ
“An Nam tạp chí” ra đời
Xa thời ai nhớ, gần thời nhớ ai
Mã Mây với phố Hàng Khoai
Quan hà gang thước cho người sầu riêng
Trách cho ông bạn láng giềng
Giận nhau chi đó mà kiềng nhau ra
Ước gì họp mặt đôi ta
Cốc men Quế Lộ, chén trà Liên Tâm
Ngày xuân nhắn bạn tri âm...
10. Một bức thư của người nhà quê
Bốn phương bay mỏi cánh hồng
Đường mây bãi tuyết chán lòng tha hương
Tản Viên bóng gác tà dương
Gió thu giục khách lên đường về quê
Trùng dương rót chén hoàng huê
Năm đi tính lại năm về ba ba
Bắc, Nam bao độ vào ra
Tình duyên gặp gỡ này là những ai?
Còn về còn nhớ đến người
Còn duyên văn tự, còn nhời nước non
Biết nhau từ “Khối tình con”
Quen nhau từ thủa tóc còn đương xanh
Yêu nhau sáu tháng “Hữu thanh”
“Tản Đà thư điếm” Hà thành nối duyên
Nước non đã nặng nhời nguyền
“An Nam tạp chí” con thuyền lênh đênh
Phong ba đành gạt “Khối tình”
Tám năm tay lái một mình ngược xuôi
Quản chi sông rộng, doành khơi
Buồm không thuận gió, ai ơi cũng đành
Bẽ bàng tóc bạc rừng xanh
Thôn quê nay với đô thành khác xa
Phòng văn ai kẻ vào ra
Sương thu bốn giậu, giăng tà nửa hiên.
Trên đây là 10 bài thơ về rượu và tri kỷ hay nhất của thi sĩ Tản Đà. Để đọc thêm nhiều bài viết hay ho về rượu khác, mời bạn ghé trang tin tức của chúng tôi. Rượu Tốt là cửa hàng rượu ngoại chính hãng, uy tín hàng đầu Việt Nam!